1. Tại sao trẻ bị suy dinh dưỡng?
- Thiếu ǎn, bữa ǎn thiếu số lượng, thiếu các chất dinh dưỡng cần thiết để phát triển:
- Trẻ dưới 5 tuổi có nhu cầu dinh dưỡng cao để phát triển cơ thể. Để đáp ứng nhu cầu đó, cần cho trẻ ǎn uống đầy đủ theo lứa tuổi. Trẻ dưới 6 tháng tuổi cần được bú mẹ hoàn toàn. Sữa mẹ là thức ǎn lý tưởng của trẻ nhỏ. Từ tháng thứ 7 trẻ bắt đầu ǎn thêm ngoài sữa mẹ. Từ tháng tuổi này, thực hành nuôi dưỡng trẻ có ý nghĩa quan trọng đối với suy dinh dưỡng. Nhiều bà mẹ chỉ cho trẻ ǎn bột muối, thức ǎn sam (dặm) thiếu dầu mỡ, thức ǎn động vật, rau xanh, hoa quả. Đây là những tập quán nuôi dưỡng chưa hợp lý cần được khắc phục. Mặc khác, để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng, trẻ cần được ǎn nhiều bữa trong ngày vì trẻ nhỏ không thể ǎn một lần với khối lượng lớn như trẻ lớn hoặc người lớn. Điều này có liên quan đến vấn đề chǎm sóc trẻ.
- Người mẹ bị suy dinh
dưỡng: Người mẹ trước và trong khi mang thai ǎn uống không đầy đủ dẫn đến
bị suy dinh dưỡng và có thể đẻ ra đưa con
nhẹ cân, còi cọc. Đứa trẻ bị suy dinh dưỡng từ trong
bào thai sẽ dễ bị suy dinh dưỡng sau này.
-
Các bệnh nhiễm khuẩn như viêm đường hô hấp, tiêu chảy, các bệnh ký sinh trùng:
Chế độ nuôi dưỡng không hợp lý khi trẻ bệnh là một nguyên nhân dẫn đến suy dinh
dưỡng sau mắc bệnh ở trẻ dưới 5 tuổi.
-
Thiếu chǎm sóc hay đứa trẻ bị "bỏ rơi":
Ngoài chǎm sóc về ǎn uống, đứa trẻ cần chǎm sóc về sức khoẻ (tiêm chủng, phòng chống nhiễm khuẩn), chǎm sóc về tâm lý,
tình cảm và chǎm sóc về vệ sinh. Môi trường sống ở gia đình bị ô nhiễm, sử dụng nguồn nước không sạch để nấu ǎn, tắm giặt cho trẻ, sử lý nước thải, phân, rác không đảm bảo là những yếu tố dẫn đến suy
dinh dưỡng.
2.
Biện pháp phòng chống suy dinh dưỡng
- Trẻ dưới 5 tuổi nhu cầu dinh dưỡng ngày một
cao để phát triển cơ thể, do vậy cần cho trẻ ăn uống đầy đủ theo lứa tuổi.
-
Chǎm sóc ǎn uống của phụ nữ có thai để đạt mức tǎng cân 10-12 cân trong
thời gian có thai. Khám thai ít nhất 3 lần,
tiêm đủ 2 mũi phòng uốn ván, uống viên sắt acidfolic hàng ngày.
-
Cho trẻ bú sớm trong nửa giờ đầu sau khi sinh, bú hoàn toàn sữa mẹ trong 6
tháng đầu và tiếp tục cho bú đến 18-24 tháng, từ tháng thứ 7 cho trẻ ăn thêm các thức ăn khác ngoài sữa
mẹ. Trẻ trong thời gian
ăn bổ sung, cần cho trẻ ăn nhiều bữa trong ngày, ngoài các bữa chính còn cho
trẻ ăn 2 đến 3 bữa phụ như hoa quả chín, nước trái cây để tăng cường vitamin và
chất khoáng giúp trẻ phát triển khoẻ mạnh.
- Cho trẻ ǎn bổ sung (ǎn sam,
dặm) từ tháng thứ 7. Tô màu đĩa bột, tǎng thêm chất béo (dầu, mỡ, lạc, vừng). ǎn nhiều bữa.
- Thực hiện phòng chống thiếu vi chất dinh
dưỡng: Phụ nữ có thai uống viên sắt/acid folic hàng ngày. Trẻ em 6-36 tháng
uống vitamin A liều cao 2 lần một nǎm. Phòng
chống các bệnh nhiễm khuẩn (tiêu chảy, viêm đường hô hấp). Thực hiện
tiêm phòng đầy đủ. Chǎm sóc và nuôi dưỡng hợp lý trẻ bị bệnh.
- Phát triển ô dinh dưỡng trong
hệ sinh thái VAC (vườn, ao, chuồng) để có thêm thực phẩm cải thiện bữa ǎn gia đình. Chú ý nuôi gà,
vịt đẻ trứng, trồng rau ngót, đu đủ, gấc.
- Phấn đấu bữa ǎn nào cũng có đủ 4 món cân đối. Ngoài cơm (cung cấp nǎng lượng), cần có đủ 3 món nữa là: rau quả (cung cấp vitamin, chất khoáng và chất xơ); đậu phụ, vừng lạc, cá, thịt, trứng (cung cấp chất đạm, béo) và canh cung cấp
nước và các chất dinh dưỡng bổ sung giúp ǎn ngon miệng.
- Thực hiện vệ sinh môi trường,
dùng nguồn nước sạch, tẩy giun theo định kỳ, rửa tay trước khi ǎn và sau khi đi đại tiểu tiện. Đảm bảo vệ sinh thực phẩm, thức ǎn không là nguồn gây bệnh. Bên cạnh việc chăm sóc vấn đề về dinh
dưỡng và sức khỏe cần tạo cho
trẻ có tinh
thần vui
chơi thoải mái, giúp cho
trẻ phát triển khỏe mạnh toàn diện.
- Thực hiện gia đình hạnh phúc,
có nếp sống vǎn hoá, nǎng động, lành mạnh. Có biểu đồ tǎng trưởng để theo dõi sức khoẻ của trẻ. Không có trẻ suy dinh dưỡng, không sinh con thứ ba.